Huyệt kiềm còn gọi là “huyệt xoa kiềm” (cái trâm), “huyệt khai cước” (chân mở), “huyệt hổ khẩu” (miệng hổ), là một trong bốn loại huyệt cơ bản: oa, kiềm, nhũ, đột.
Sách Địa lý nhân tử của Từ Thiện Kế viết: “Huyệt kiềm có hai chân duỗi thẳng, ở vùng núi và đồng bằng đều có”. Lưu Cơ viết trong Kham Dư mạn hứng:
“Vốn huyệt có hai tay như gọng kìm, thẳng, cong, ngắn hay dài đều phải có thế bao bọc”.
Yêu cầu đối với huyệt kiềm là: Đỉnh huyệt ngay ngắn, tròn trịa, sinh khí tụ ở miệng kìm, tối kỵ hai đầu gọng kìm nham nhở, trên đĩnh huyệt có rãnh. Nếu có địa hình như vậy, nước sẽ dội đầu huyệt tạo thành thế lở đất, là tượng đại hung.
Huyệt kiềm như chiếc trâm treo trên tường, kỵ trên đỉnh huyệt có nước chảy tới, đầu trâm không tròn, nhiều chỗ lở, phá. Tuy hình dáng không giông cái kìm nhưng không phải là chỗ khí tụ huyệt kết, chỉ là huyệt kiềm giả. An táng tại đất này chỉ khiến xương cốt mục nát mà thôi.
Phần mềm tra cứu phong thủy trực tuyến
Xin mời click vào ô công cụ cần xem, nhập thông tin để tra kết quả chính xác nhất