Can thuỷ là dòng nước chính của sông lớn, ví dòng sông như cái cây thì can thuỷ là thân cây.
Can thuỷ chia làm 2 loại: can thuỷ thành viên (can thuỷ tường thành) và can thuỷ tản khí. Can thuỷ tường thành có thể sử dụng, can thuỷ tản khí thì không.
Can thuỷ tường thành là dòng sông lớn như bức tường thành vòng vèo, có tác dụng ngưng tụ khí mạch. Nếu dòng chảy xối xả, không quay đầu thì không bao bọc đất, núi, gò, đồi, không tạo ra huyệt địa tụ khí. Nếu dòng nước từ l0 - 20 dặm không uốn lượn thì không tạo thành đất đắc thuỷ.
Can thuỷ tản khí là dòng nước chảy thẳng, xối xả, không uốn lượn, không bao bọc gò, đồi, núi. Nếu uốn lượn không bao bọc, không có dòng nhánh thì cũng không tạo ra đắc địa, huyệt cát.
2. Chi thuỷ là nhánh của can thuỷ, vĩ như các cành cây được phân nhánh từ thân cây. Chỉ thuỷ không bao bọc đất thì cũng không thành huyệt. Các loại hình chi thuỷ gồm:
Loại thứ nhất: Dòng chảy bên hữu ở trên của con sông lớn, chảy từ hữu sang tả; dòng nước bên tả cũng chảy từ hữu sang tả, hai nhánh này gặp nhau, ngoằn ngoèo chảy đi gọi là hai dòng hợp lưu tạo thành cục nhất thuỷ dẫn mạch.
Có sách nói rằng: “Lưỡng thuỷ hợp, xuất chân long” (Hai dòng nước hợp sẽ xuất hiện chân long). Long mạch từ bên phải đến huyệt ở tả cục, trung long mạch rộng lớn nhưng phải tìm chỗ cắt các chi thuỷ, trước sau phải trái của gò Long Hổ có gò, núi bao bọc dày đặc. Lập mộ tại đây sẽ cát.
Cục này hai dòng nước gặp nhau, hai bên tả hữu đều khoá, tam phân tam hợp, ngăn khí. Long mạch đến đây, khí long bị ngăn phải tụ lại. Dòng nước từ phía Tây đến càng phúc lớn.
Loại thứ hai: Dòng nước từ phía sau bên phải chảy vòng gò Huyền vũ. Tuy không quay đầu nhưng dòng chảy từ bên trái uốn lượn đi, vẫn là chân khí. Chỗ dòng nhánh lớn có một nhánh từ trái chảy lên phía trước bao bọc sang phải gọi là bao ngoài. Lại có dòng nhánh ở mé phải của bên trái chia làm hai nhánh nhỏ. Một nhánh chảy lên trên, một chảy xuống dưới tạo thành cái ao.
Sa thuỷ quay đầu bên trái. Điều này gọi là thuỷ nghiêng kết huyệt, trước gò tiểu đãng tụ thuỷ. Nếu lập huyệt đối với gò tiều đãng, phát khoa giáp.
Loại chi thuỷ giao giới thứ ba: Dòng nước từ Tây Năm va Đông Nam chảy tới Đông Bắc tạo thành nhánh phân giới ở Đông Bắc.
Long Hổ sa kẹp ở trước sau huyệt mộ, ở giữa có dòng chảy phía trước. Trái phải có kim ngư thuỷ bao bọc, dòng chảy ở giữa được gò hộ vệ tạo thành tam phân tam hợp, khí mạch ngưng đọng.
Thuỷ phải có phân có hợp mới đẹp. Cục này tam phận tam hợp, dòng quay đầu về phía Tây không có thể trực sát, mộ phú quý toàn mỹ. Nếu thuỷ từ Đồng Nam đến, long mạch càng tú lệ, tiếng tăm văn chương nhất thiên hạ.
Loại chi thuỷ giao giới thứ tư: Dòng chảy từ Đông Bắc hoặc Tây Bắc phân nhánh phía Nam, uốn lượn bên trái, phải, Long Hổ hai bên giao nhau giống như cây xương rồng. Đây là mộ ngưỡng kết ngưỡng oa huyệt. Nếu được Long Hổ bao ở phía trước, phát càng nhanh.
Khi đặt mộ nên xem sơn thuỷ lai triều. Nếu núi xa thanh tú, lập thuận chi huyệt. Nếu thuỷ bao như cung, dày đặc, thành quách trùng trùng, con cháu vinh hoa mãi mãi. Nếu dòng nước chảy từ Đông Bắc đến Tây Bắc phân tiết ở trái, phúc đức giảm.
3. Khúc thuỷ là dòng chảy ngoằn ngoèo, uốn lượn, hình thành thế trường thành, luôn có huyệt kết. Khúc thuỷ cố hai loại:
Khúc thuỷ đơn triều': Dòng chảy chỉ có một nhánh chảy vòng vèo hình thành các thế tường thành khác nhau. Nếu đặt mộ ở thế này, cát xương, chủ phúc dày, phú quý lâu dài.
Khúc thuỷ triều đường: Có nhiều dòng nhánh, chảy bao bọc huyệt mộ tạo ra minh đường kín đáo tụ khí. Đây cũng là mộ đẹp, gia chủ vinh hoa, phú quý.
4. Thuận thuỷ là dòng nước chảy thuận hoà bao bọc huyệt mộ.
Trong Kham Dư mạn hứng, Lưu Cơ viết: “Long huyệt thuận thuỷ phải thấp, có gò đông bao bọc mới lành. Nước chảy phía trước ào ào, dù là chân long cũng tai hoạ”.
Trong Táng kinh dực, Mậu Hy Ung viết: “Nếu long mạch nghịch thế thuỷ đi lên, thuận thuỷ đi xuống đó, là nghịch thế. Nếu long mạch thuận thuỷ đi xuống, nghịch thuỷ đi lên đó là thuận thế?.
Phần mềm tra cứu phong thủy trực tuyến
Xin mời click vào ô công cụ cần xem, nhập thông tin để tra kết quả chính xác nhất