Thông tin tuổi vợ chồng của bạn
Đối chiếu tuổi mệnh chồng sinh năm Đinh Sửu vợ Đinh Sửu:

Chồng : Đinh Sửu

Trâu nuôi ăn cỏ, là người có tính cách cương trực, không sợ kẻ ác, có tài năng và trí tuệ, tuy thông minh nhưng lại không thành đạt. Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, sau trở nên chảy xiết, nôi liền dòng Nam Bắc, đứng đối mặt với cung vị Khảm, Ly. Là mệnh Thủy tụ phúc, ưa nhất gặp Kim, nếu nạp âm Thủy Mộc vượng khí, âm dương hài hòa tất thành người hiển quý, phát đạt.

Vợ : Đinh Sửu

Trâu nuôi ăn cỏ, là người có tính cách cương trực, không sợ kẻ ác, có tài năng và trí tuệ, tuy thông minh nhưng lại không thành đạt. Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, sau trở nên chảy xiết, nôi liền dòng Nam Bắc, đứng đối mặt với cung vị Khảm, Ly. Là mệnh Thủy tụ phúc, ưa nhất gặp Kim, nếu nạp âm Thủy Mộc vượng khí, âm dương hài hòa tất thành người hiển quý, phát đạt.

Đối chiếu ngũ hành của chồng tuổi 1997 vợ 1997:

Ngũ hành của bạn Không xung không khắc bình hòa với nhau

Vợ chồng bạn có ngũ hành bình hòa, nam Đinh Sửu mệnh Giản hạ Thủy (Nước dưới lạch), nữ Đinh Sửu mệnh Giản hạ Thủy (Nước dưới lạch), vợ chồng âm dương ngũ hành không sinh, không khắc nhau, không hại, hình, xung nhau, cũng không tương hợp.

Đối chiếu Thập nhị Địa chi theo tuổi chồng sinh năm 1997 và vợ sinh năm 1997:

Thiên can tượng trưng cho trời, địa chi tượng trưng cho đất. Thiên can kết hợp với địa chi là sự tượng trưng hoàn hảo cho sự kết hợp giữa trời và đất, đại diện cho các thông tin của vô số các sự vật hiện tượng trong trời đất vũ trụ. Thiên can Bình Hòa

Tuổi chồng và tuổi vợ

Đối chiếu cung phi bát tự theo tuổi vợ 1997 chồng 1997:

Cung phi vợ chồng : Phục vị

Chồng sinh năm 1997 tức cung Chấn Mộc lấy vợ sinh năm 1997 tức cung Chấn Mộc mà gặp được Phục vị thì rất tốt. Phục vị Thuộc sao Tả Phù, là sao tốt; củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.

“Trai cung Chấn lấy gái cung Chấn (phục vị)

Rừng cao gió mạnh vụt ào ào

Hoa trái tơi bời cành lá hao

Lập nghiệp gian nan mới đạt chí

Phước lành cũng được hưởng về sau.

 

Trong tình duyên nợ, tiền hậu như nhứt

Có số no ấm cả đời

Gia đạo yên vui trên hòa dưới thuận.”

Đối chiếu theo Cao Ly Đầu Hình - luận can chi tuổi vợ chồng:

Theo khoa đoán số vợ chồng của Cao Ly Đầu Hình thì Nam dụng Can, Nữ dụng Chi. Theo quẻ bói này, người nam có can là Đinh nếu lấy người nữ có chi là Sửu:

Thì sau 30 tuổi mới phát đạt và thành công, con cái đuề huề và có công danh sự nghiệp ổn định. vợ chồng ăn ở ân đức mới tạo phúc cho bản thân và con cái.


"Đời lắm lúc trêu cay ngậm đắng,

Cơn nguy nàn mới rõ lòng nhau.

Trăm năm tạc dạ ghi xương,

Dẫu mòn bia đá dám sai tấc lòng."

Đối chiếu quẻ dịch - Xem hợp khắc theo tên họ:

Kết hợp với ngày sinh của vợ chồng được quẻ : Thuần Càn (乾 qián)

Kí hiệu quẻ :

Ý nghĩa :

 Luận theo tên của vợ và tên chồng kết hợp sẽ ra Quẻ Thuần Càn là quẻ tốt, dương cực thịnh, mang ý chỉ thời thịnh trị, là thời điểm người quân tử phát huy tài nằn. Tuy nhiên vì cực thịnh mà chỉ thời thịnh trị, lợi cho những điều tích cực, thời của người quân tử thi thố tài năng. Nhưng vì cực thịnh mà tàng cái suy, khi đến điểm cao nhất của thịnh vượng sẽ bắt đầu suy thoái. Vì vậy gặp thời vận tốt phải biết chờ thời cơ, khôn nên nôn nóng mà dễ gặp phải thất bại, phải biết dựa vào người có đức tính tốt, tận tâm tận lực lo cho công việc mới có thể đạt được kết quả như ý. Dù hiện tại có đang gặp khó khăn và vất vả nhưng gặp quẻ này ắt sẽ thành công, tương lại sáng sủa. Trong công việc có quý nhân phù trợ, kinh doanh ban đầu có thể khó khăn nhưng sau này sẽ thuận lợi, mang đến nhiều của cải và tài lộc. Thi cử khoa bảng dễ thuận lợi. Tuy nhiên nếu có bệnh tật trong người gặp quẻ này thì lại không có lợi, có thể gặp bệnh nặng hơn. Những người thuộc quẻ Thuần Càn sinh vào tháng 3, 6, 9 12 là những tháng thuộc Thổ thì đắc cách, cuộc đời gặp nhiều may mắn, thuận lợi, phúc lộc.

Quẻ dịch này mang đến cát lợi, hai vợ chồng rất hợp với nhau, chúc mừng hai bạn!

Số điểm

Đối chiếu cân xương tính số - tra hợp khắc vợ chồng theo năm tháng ngày giờ sinh:
Trong phép Cân Xương Tính Số thì lượng số thấp nhất là 2 lượng 2 chỉ, số cực khổ bần bạc, cơ hàn thiếu tới cơm ăn áo mặc. Còn lượng cao nhất là 7 lượng 1 chỉ, đó là số của nhân vật phi thường, trong một nước khó có tới 3 người.
Sau khi cân xương tính số thì vợ có 3 lượng 4 chỉ và chồng có 3 lượng 4 chỉ, lượng chỉ chồng vợ bằng nhau, cân bằng sẽ được hạnh phúc

Người có số lượng chỉ như vậy thương phải tha phương, sống xa gia đình và cha mẹ nương nhờ cửa phật. Có số tăng đạo, hàng ngày tụng niệm mới mong mọi chuyện suôn sẻ, thành công.

"Số mạng cao xanh đã định rồi

Có căn tu niệm được cao ngôi

Xuất gia đầu Phật quy Tam Bảo

Uy đức tòa sen chín phẩm ngồi.

Thử mệnh phúc khí quả như hà.

Tiên đạo môn trung y lộc đa.

Ly tổ tầm sư phương học đạo.

Triều chiều luyện pháp đắc Thần Tiên."

Người có số lượng chỉ như vậy thương phải tha phương, sống xa gia đình và cha mẹ nương nhờ cửa phật. Có số tăng đạo, hàng ngày tụng niệm mới mong mọi chuyện suôn sẻ, thành công.

"Số mạng cao xanh đã định rồi

Có căn tu niệm được cao ngôi

Xuất gia đầu Phật quy Tam Bảo

Uy đức tòa sen chín phẩm ngồi.

Thử mệnh phúc khí quả như hà.

Tiên đạo môn trung y lộc đa.

Ly tổ tầm sư phương học đạo.

Triều chiều luyện pháp đắc Thần Tiên."

Luận điểm :

Đối chiếu tuổi lệch giữa chồng sinh năm Đinh Sửu và vợ Đinh Sửu

Chồng sinh năm 1997, vợ sinh năm 1997, chồng lớn hơn vợ 0 tuổi, là thuận theo lẽ tự nhiên, rất tốt.

Luận điểm :

Đối chiếu Cô Thần - Quả tú:

Nếu con trai sinh ra rủi phạm nhằm tháng CÔ THẦN thì việc lập gia đình gặp nhiều rắc rối: trể nải, thay đổi nhiều đời vợ, phải chịu lắm nỗi đau buồn trong bước đường tình.

Còn con gái sanh rủi phạm nhằm tháng QUẢ TÚ thì đời mình phải chịu nhiều nỗi đau thương trong cuộc lương duyên, thay đổi nhiều đời chồng, khổ sầu nhiều nỗi !

người chồng đã phạm phải cô thần điều này là rất xấu cho tình duyên đôi lứaChồng tuổi Đinh Sửu sinh vào tháng 6

người vợ đã phạm phải quả tú điều này là rất xấu cho tình duyên đôi lứaVợ tuổi Đinh Mão sinh vào 6

Luận điểm :

Kết luận điểm 13.5/19

Tuổi Vợ Đinh Sửu (1997) và chồng Đinh Sửu (1997) bình hòa - không tốt không xấu.